Nguồn:
Một thị thành cho vơ mọi người Photoshop được phát triển ở San Jose, cách Thung lũng Silicon khoảng nửa giờ đi đường. Adobe đặt viên chức của mình vào trong ba tòa nhà có chiều cao tương đối để họ làm việc. Nơi đây còn có một sân bóng rổ, một phòng tập thể dục và một quầy ăn tự chọn đẹp mắt, nơi hồ hết mọi vật đều được đem đi tái chế để bảo vệ môi trường. Nhiều nhân viên Adobe mà phóng viên The Verge đã gặp đều là những người khéo ăn nói và rất sáng dạ. Một trong những người đó là Russell Williams, nhà khoa học trưởng của Adobe và cũng kiến trúc sư trưởng của Photoshop. Vai trò của ông là giữa cho phần mềm này liên can đến những gì người ta cần ở nó. Vào những năm 90, ông làm cho Apple về mảng Mac OS, sau đó ông đầu quân cho Adobe cách đây 15 năm, chỉ một thời kì ngắn sau khi Steve Jobs quay lại Apple. Phóng viên Paul Miller trình diễn.# Williams đeo một cặp kính lớn làm cho mắt của ông trông có vẻ to lên, và ông đã nói một cách hứng về các ý tưởng lớn nhỏ. Cách nói của ông hay đến mức Miller cuốn hút thì hỏi Williams rằng liệu ông có muốn trở thành bạn thận của Miller hay không. Nói về việc xây dựng Photoshop sao cho ưng ý mọi người, Williams nói: "Người ta nói rằng bỏ hết những thứ tôi không dùng đi, rồi đặt những thứ tôi dùng lên giao diện. Và vấn đề ở đây là gì? Mỗi người có một ý tưởng khác nhau về những thứ nên đặt lên". Ngoài ra, người dùng đã và đang tìm ra những cách sử dụng Photoshop mà ngay cả Adobe cũng chẳng thể ngờ tới. "Mọi người sử dụng toolbox của app và sử dụng các dụng cụ này theo những cách rất lạ kì". Adobe chẳng thể ép mọi người phải dùng sản phẩm của mình theo một (hoặc một số) phương pháp nhất quyết. Nếu bạn coi Photoshop là một đô thị thì cũng đúng lắm, mọi người có cách riêng của mình để đi xuyên qua cái thành phố này. Phiên bản trước nhất của Photoshop chạy trên một chiếc Mac có CPU 8MHz, RAM 2MB và cả ứng dụng này chỉ gói gọn trong một chiếc đĩa mềm. Thomas Knoll bắt đầu viết ra Photoshop vào năm 1987. đồ họa web căn hộ chung cư kiến trúc nhà đẹp 2013 nội thất phòng ngủ sang trọng Đây là dự án chỉ có độc nhất vô nhị một người làm mãi cho đến khi app được ra mắt ba năm sau đó. Quơ mọi thứ, từ những thao tác chỉnh sửa ảnh cho đến việc bố cục chữ, từ các thành phần giao diện mà nhìn vào thấy ngay cho đến những thuật toán sâu bên trong Photoshop đều do một mình Knoll tạo nên. Cũng cần phải nói thêm là ông cũng có nhận được sự viện trợ từ người anh John Knoll, một kĩ sư chuyên về hiệu ứng hình ảnh. Chung cục, Thomas Knoll đã cho ra được một sản phẩm chỉnh sửa ảnh chạy trên một chiếc Mac có CPU 8MHz, RAM 2MB và cả ứng dụng này chỉ gói gọn trong một chiếc đĩa mềm.Photoshop là một kì công về kĩ thuật kể từ những ngày đầu nó được xây dựng. Ý địnhban đầu của tác giả, lúc Photoshop còn được gọi là "Display", đó là tạo ra một trình xem ảnh với độ phân giải giống như những gì có thể in được trên một chiếc máy Mac. Trước đó, để xem những hình ảnh độ phân giải cao cần thì cần phải có một chiếc máy tính đắt tiền với RAM lớn. Tuy nhiên, Knoll không dừng bước ở đây. Anh nghĩ ra cách chuyển đổi các hình ảnh đó bằng đồ họa wii cầu thang kiến trúc sư thiết kế nhà đẹp nội thất phòng ngủ sang trọng cách đối xử chúng như là những "cấu trúc toán học". Chính suy nghĩ này để giúp tạo ra các dụng cụ như Clone (sao chép), Wand Selection (tuyển lựa vùng một cách thông báo), và thậm chí là cả các bộ lọc dạng (filter) plug-in. Photoshop 1.0, về lý thuyết, có thể mở được tấm ảnh có dung lượng tầm 10-15MB (thời đó, dung lượng này lớn lắm) và bắt đầu việc xử lí. Khi vận dụng một filter, máy tính sẽ chạy khoảng 10 phút, việc lưu ảnh cũng tốn lắm thời kì, thao tác undo cũng lâu đến nỗi mỗi quyết định áp lên ảnh đều phải chính xác. Mặc dù vậy, Knoll vẫn đã tạo ra một nền tảng gần như hoàn hảo những tính năng mà Photoshop có thể và sẽ phải làm được. Thiết kế ban sơ Photoshop 1.0 là sản phảm điển hình cho thời đại của nó. Nền móng mà Knoll tạo ra đã phát triển để hỗ trợ những chức năng mà bản thân Knoll không bao giờ có thể hình dong ra, các tính năng thì ngày càng phát triển hơn, nhóm của Knoll cũng có nhiều viên chức hơn. Photoshop đã chuyển mình từ một phương tiện hỗ trợ nhiếp ảnh trở thành một phần mềm thiết kế đồ họa phứa mạnh mẽ. Và khi một bản chuyển thể dành cho Windows là điều bắt buộc, mọi thứ bắt đầu trở nên rắc rối. Như đã nói ở trên, chúng ta tạm xem Photoshop trong bài viết này là một thành thị. Ở đâu đó trong đô thị này, nơi những người vô gia cư lạc loài giữa một thành phố lớn, có một bộ khung nho nhỏ gọi là "MacApp". Nó là vết tích còn sót lại của phiên bản Photoshop trước hết, một mảnh vỡ của nền tảng Photoshop. MacApp là nền móng hướng đối tượng cho phép Photoshop giao thiệp với hệ điều hành bên dưới, lúc bấy giờ chính là Mac OS 6.0.3. Vào năm 2001, Apple đã tự bộ khung MacApp, nhưng Adobe thì không. MacApp bị kẹt lại ở một vài điểm trong bộ lòng của Photoshop như là một "lớp keo" (glue layer, một điểm tham chiếu giúp mã lập trình có thể chạy được trên nhiều nền tảng khác nhau). Hiện tại thì không nhiều kĩ sư viết mã để giao tiếp với hệ điều hành, họ chỉ làm việc với "mã Photoshop" và hồ hết những tính năng đều độc lập với hệ điều hành. Tuy nhiên, Russell Williams, vị kiến trúc sư trưởng mà chúng ta đã có dịp gặp ở trên, vẫn còn phải đối mặt với MacApp trong đợt chuyển đổi mới đây sang nền tảng Cocoa. Cocoa là một bộ khung lập trình bao gồm các thư viện, hàm API và môi trường chạy dành cho ứng dụng OS X. Hàng triệu dòng mã lệnh của Photoshop đã phải viết lại, và có thời điểm bít tất nhóm Photoshop đã cùng dự vào dự án chuyển đổi này. Đây cũng là một phần khác trong công việc của Russell: cai quản tính kế thừa của Photoshop, tức đảm bảo rằng các dòng mã lệnh cũ còn sót lại của những bản Photoshop trước phải chạy tốt, trong khi vẫn bảo đảm xây dựng tương lai cho ứng dụng. Về cá nhân chủ nghĩa Knoll, hiện giờ ông cốt xử lí ảnh bằng Lightroom, và nó cũng là dự án mà ông đang làm việc. Ông không còn quyến luyến "cái thành phố" cũ của mình nữa. Ông nói: "Máy tính đã đổi thay rất nhiều kể từ khi tôi làm Photoshop 1.0", và nếu Photoshop là một tỉnh thành thì Lightroom là một lô đất sạch sẽ, sẵn sàng để xây dựng nên các kiến trúc cần thiết cho người dùng của ngày bữa nay. Tái xây dựng Đã có một thời kì dài nhiều người thắc mắc vì sao Adobe không làm lại Photoshop từ đầu? Trong những năm gần đây, Adobe liên tiếp bổ sung những chức năng mới vào phần mềm của mình, thậm chí card đồ họa ati mobility radeontm hd 5470 phòng ngủ mẫu kiến trúc nhà phố đẹp nội thất sang trọng là những tinh chỉnh về mặt hiệu năng như tăng tốc bằng GPU, tuy nhiên cả phần mềm Photoshop đã quá cũ kĩ và có cảm giác như nó sắp sập đến nơi. Những phiên bản mới của Photoshop (mới nhất là CS6) có khả năng tận dụng được sức mạnh của những hệ điều hành và máy tính thời hiện đại, tuy nhiên chúng lại cho cảm giác chậm chạp hơn so với một số phần mềm mới khác có tuổi đời nhỏ hơn. Liệu một đợt làm mới có giúp Photoshop trông khác đi so với những năm 1990, và trông "giống" hơn so với những ứng dụng của năm 2013? Điều đó sẽ không xảy ra đâu các bạn à. Theo lời Bryan O'Neil Hughes, một cai quản sản phẩm của Adobe, "nó sẽ không cách gì giống với Photoshop hiện giờ nếu bạn bắt đầu lại từ đầu. Giống như một thành phố, nó đồ họa và hiện thực ảo phòng chiếu phim kiến trúc nhà đẹp châu âu nội thất phòng ngủ sang trọng (Photoshop) có những tính cách riêng". Do đó, một bản Photoshop hoàn toàn mới sẽ không còn là... Photoshop. "Nếu bạn muốn làm cả thảy mọi thứ Photoshop có thể làm được, bạn sẽ phải làm theo cùng cách của Photoshop". Ngoại giả, việc viết lại cả một chương trình độ sộ như thế này sẽ mất cả thập kỉ, cộng với đó là nguy cơ bị lỗi bừa cao nên một "Photoshop mới" sẽ không thể nào được hoàn thiện. Chúng ta có thể lấy một ví dụ cụ thể cho việc này, đó là Final Cut X của Apple. Đây là một vận dụng làm phim chuyên nghiệp được viết lại từ Final Cut Pro và giờ nhiều khách hàng đã chuyển sang sử dụng của các đối thủ khác. Lý do không phải vì tính năng của Final Cut X thua kém những đối thủ khác, nhưng người tiêu dùng họ vẫn thích những gì quen thuộc, những gì đã gắn bó với họ trong thời kì dài. Hoặc như đợt làm mới iTunes 11, thậm chí là cả Facebook cũng y như vậy (bạn hãy nhớ lại khoản thời kì mà mọi người tìm cách gỡ bỏ giao diện Timeline để giữ lại giao diện Wall cũ, đấy là minh chứng khá rõ cho việc người tiêu dùng không thích sự đổi thay quá nhiều). Cũng như Final Cut X, không phải giao diện mới của iTunes, Facebook xấu hơn, mà trái lại nó còn tốt hơn đấy chứ. Chỉ có một điều là nó khác so với các phiên bản trước, và người dùng thì lười học lại cách dùng mà họ đã được thu nạp nhiều năm trước. Vậy chúng ta không thể làm mới Photoshop,nhưng liệu ta có thể viết lại nó không? Thomas Knoll nói "căn bản là chúng tôi đã làm điều đó, nhưng kết quả thì rất là khác", và sản phẩm "viết lại" này chính là Lightroom. Tác giả của Photoshop bắt đầu làm việc trên dự án Lightroom cách đây khoảng 10 năm khi đang trong kì nghỉ của mình. Ông cảm thấy định dạng ảnh từ chiếc camera của mình phiền quá, do đó ông quyết định "đảo ngược" nó. Kỹ nghệ đảo ngược hay công nghệ đảo ngược - reverse engineering - là quá trình tìm ra các nguyên lý kỹ thuật của một thứ gì đó phê duyệt việc phân tách cấu trúc, chức năng và hoạt động của nó. Trong quá trình này, người ta thường phải tháo đối tượng thành từng phần và phân tích chi tiết hoạt động của nó, thường là với mục đích xây đồ họa fifa online 3 cầu thang những kiến trúc nhà đẹp trang trí nội thất sang trọng dựng một thiết bị hoặc phần mềm mới hoạt động giống hệt nhưng không sao chép bất cứ thứ gì từ đối tượng nguyên bản. Kết quả của sự "đảo ngược" trên: plug-in Camera RAW dành cho Photoshop ra đời. Hiện nay, Camera RAW hỗ trợ tập tin RAW của hàng trăm máy ảnh khác nhau và hầu hết đều được xây dựng dựa trên kĩ thuật đảo ngược của Adobe. Trong quá trình phát triển, Camera RAW đã sở hữu riêng một bộ dựng hình độc lập với Photoshop và nó chính là thứ được dùng trong Lightroom. Giao diện của Camera RAW Knoll nói thêm rằng việc viết mã để thay đổi hình ảnh là một việc "rất vui" và "thần kì". Ông không ngại nói rằng nhiều thuật toán xử lí của Camera RAW, tỉ dụ như Highlights hay Shadows, giờ đây đã vượt trội hơn cùng tính năng đó trong Photoshop. Knoll hiện đang phát triển một phương thức mới để tạo ảnh HDR tốt hơn, tinh vi hơn trước đây. Tuy nhiên, cả Lightroom và Camera RAW đều không tránh khỏi "sự tàn phá của thời kì". Knoll giảng giải: "Khi một người dùng thực hiện thao tác chỉnh sửa ảnh, nó (Lightroom hoặc Camera RAW) không thực sự lưu những pixel đã được chỉnh sửa. Nó chỉ lưu những đổi thay mà người dùng đã ứng dụng". Điều đó có tức thị Lightroom phải theo dõi sát từng phiên bản đã chỉnh sửa của ảnh, và nếu trong vòng 5 năm tới, người dùng mở bức ảnh đó ra bằng một Lightroom hoàn toàn mới, nó phải trông y hệt như hiện giờ. Photoshop cũng gặp vấn đề na ná với các script do người dùng tạo ra. Những hành động đã được ghi lại phải chạy tốt trên các phiên bản Photoshop trong tương lai, điều đó có nghĩa là nếu một tính năng cũ bị bỏ đi thì script xem như hỏng bét. Quay trở lại sự so sánh với một thị thành, những tính năng này giống như các tòa nhà bỏ hoang mà bạn chẳng thể phá bởi bạn chẳng biết được ai có thể còn đang sử dụng chúng. Lịch sử các phiên bản và năm ra đời của Photoshop mai sau Photoshop không bao giờ nói "không" với một tính năng mới, và điều đó là nó trở thành thật sự mạnh mẽ Jeff Chien là lãnh đạo của nhóm "Tech Transfer" chuyên cáng đáng việc chuyển đổi các tính năng từ phòng thí điểm của Adobe sang sản phẩm thực tiễn. Nếu bạn muốn tìm một người để nói lời cảm ơn về tính năng đồ họa chơi fifa online 3 phòng chiếu phim thiết kế kiến trúc nhà ống đẹp nội thất nhà sang trọng Content Aware Fill, Chien chính là người đó. Và nếu bạn muốn tìm ai đó để than phiền về các tính năng "cùi bắp" của Photoshop thì cũng hãy gặp Chien. Vị lãnh đạo này đã nghe nhiều lời than phiền về những tính năng không tốt cũng như sự chậm chạp của Photoshop. "Chúng tôi có thể làm cho Photoshop chạy siêu nhanh, giống với phiên bản 4 hoặc 5, tuy nhiên trong tương lai chúng tôi muốn làm những thứ sáng dạ hơn". Chien nói "Làm cho phương tiện Clone trở nên nhanh hơn bằng cách chạy nó trong một phần của bộ nhớ, cố nhiên là khi bạn có nhiều, sẽ không giúp ích được cho ai cả". Photoshop không bao giờ nói "không" với một tính năng mới,và điều đó là nó trở nên thật sự mạnh mẽ. Ví dụ, Adobe đã thành lập hồ sơ màu và dữ liệu về sự biến dạng ảnh của hàng trăm máy ảnh cũng như ống kính, với mỗi bộ "máy ảnh-ống kính" hãng cũng đã chụp hàng trăm tấm ảnh mẫu. Đây là một công tác sứ tốn kém, hao tổn nhân công, và nghe cũng có vẻ quá viễn vông. Tuy nhiên, Camera RAW đã sử dụng những thông số thu thập được từ công việc cực nhọc này để sửa lại hiện tượng quang sai cho ảnh, ngay cả khi người dùng chụp bằng nhiều tổ hợp lens-body. Một số nhà nghiên cứu cũng đã tận dụng dữ liệu đó để thiết kế nên một tính năng trong Photoshop CS6 cho phép người dùng cân chỉnh lại ảnh được chụp từ các ống kính góc siêu rộng. Mục đích cao cả nhất của Adobe là cung cấp cho Photoshop một cái nhìn cụ thể. Phần mềm này phải đơn giản tuyển lựa đối tượng trong ảnh theo cách mà người dùng thấy chúng, ví dụ như "một cái cây", "cái đầu", "quả bóng", không phải là "khối màu số một", "khối màu số hai". Sau đó, Photoshop cũng phải thực thi toàn bộ những gì mà người dùng muốn với đối tượng đã chọn hệt như những gì diễn ra trong thực tại. "Cái nhìn" này còn có tức thị Photoshop phải biết được khi nào bạn đang làm việc trên một bức ảnh gia đình, khi nào thì đang thiết đồ họa cho web lan can kiến trúc nhà hàng đẹp nội thất nhà sang trọng kế logo, từ đó tinh chỉnh lại kĩ thuật xử lí màu cho hiệp. Jeff Chien cũng có tham vọng dạy cho Photoshop nhận biết về người dùng, nói cách khác, những gì mà Chien đang làm đó là phát triển một trí tuệ nhân tạo. Đây là một ý tưởng hoàn toàn bất thần của Adobe bởi vì những thứ rưa rứa như thế thường khởi hành từ các công ty công nghệ trẻ như Google, không phải từ một nhà phát triển phần mềm vốn có tính năng chính chỉ là hiển thị ảnh lên màn hình trắng đen của máy Mac. Nhưng thực tế thì đây chính là những gì mà Photoshop đang làm. Tùy thuộc vào cách nghĩ suy mà bạn có thể thấy đây là một điều ráo hoặc nhợt. thành phố ở trên mây Kể từ ngày đầu tiên làm ra Photoshop, (những) lập trình viên đã xác định rằng mình đang làm app cho số đông, không phải cho một cá nhân chủ nghĩa nào dùng. Thậm chí Adobe còn có một luật tuyển dụng như thế: nếu có ai đó nói mình là một "chuyên gia" về Photoshop, kì phỏng vấn sẽ bị ngừng lại tức khắc. Photoshop quá rộng lớn để có thể trở thành một chuyên gia. Chỉ những người đặc biệt mới có thể đào sâu vào Photoshop, và những người đặc biệt như thế sẽ vứt hết mọi tính năng mà họ không cần trong bản Photoshop cài trên máy tính của mình. Ngay cả Thomas Knoll còn nói rằng ông "chả biết gì" về những tính năng 3D có mặt trong những phiên bản mới của Photoshop. "Tôi thậm chí còn không biết làm thế nào để dùng chúng". Ông cũng không phải là fan hôm mộ của dụng cụ soạn thảo trong Photoshop. Vậy nói tóm lại, Photoshop CS6 không phải chỉ dành cho Thomas Knoll, nó không chỉ dành cho mình, và cũng không dành cho cụ thể bất kì một ai. Nó chỉ đơn giản là dành cho quờ quạng mọi người. Từ những người chụp ảnh nghiệp dư, các nhà thiết kế đồ họa chuyên nghiệp, những người "tải" Photoshop phê chuẩn torrent hay học sinh, sinh viên đều quan tâm đến Photoshop. Lý do? vì chưng chỉ có Photoshop mới "photoshop" được tác phẩm của bạn. Nguồn: The Verge |
Link: http://www.Tinhte.Vn/threads/1883225/