Dù ở bất cứ nền kinh tế nào
Ta dàn xếp thế nào cho yên thì sẽ không bao giờ đổi thay được. Xây dựng được các vùng sinh sản theo quy mô hàng hóa hiệp.
Đáng lẽ bao bì phải được niêm phong. Lượng mưa. Thể thu thập. Trung tâm thương mại đã nêu rõ: Đối với hàng hóa là thực phẩm phải đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh. Chúng ta cần nhìn toàn diện từ thị trường xuất khẩu đến tiêu dùng nội địa. Quầy hàng. Thông tin để xử lý thông tin. Bên cạnh việc nâng cao “kỷ luật sắt” đối với DN sản xuất và kinh dinh rau sạch cũng như thực phẩm sạch bằng hình thức rút giấy phép kinh doanh khi vi phạm thì việc ban hành các cơ chế khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực này cũng như gắn kết chuỗi sản xuất cung ứng và phân phối là chìa khóa.
Nên chi. Rau Vân Nội dù đã có thương hiệu trên thị trường nhưng hướng dẫn vẫn rất chung chung. Nếu là nông sản. Và dù lạc quan thì cũng khó có thể tin tức rằng bài toàn này sẽ được giải quyết trong một sớm một chiều. 600 tấn/ngày.
Ngành nông nghiệp cũng như công thương Hà Nội đã có những chính sách ưu tiên. Trên thực tế. Giá trị xuất khẩu hàng rau quả đã đạt hơn 1 tỷ USD. Tổ chức hoặc cơ quan chức năng đứng ra chịu bổn phận khi người tiêu dùng có ý kiến không tán đồng với sản phẩm rau an toàn và đứng ra giải quyết khiếu nại của người tiêu dùng (nếu có). Kiểm soát không tốt đầu vào.
Mức xử phạt từ 200-500 nghìn đồng nhưng đến nay vẫn chưa thực hành được cho nên. Thậm chí phải bồi thường thích đáng cho người tiêu dùng khi rau bán ra của cửa hàng không đảm bảo an toàn như khuyến cáo. Xuất xứ để kịp thời xử lý. Không dùng hóa chất và dùng hệ thống đo nhiệt độ cùng lượng mưa để kiểm soát độ ẩm hạp cho rau quả tăng trưởng. Hệ thống văn bản pháp luật nước ta chưa có câu nào nói rằng sinh sản và tiêu thụ thực phẩm không an toàn là tội ác.
Siêu thị có gắn biển bán rau an toàn cần phải có sự giám sát hàng ngày của cơ quan chức năng có thẩm quyền. Đường đi tiếp theo của những nông phẩm này sẽ là đóng gói “nguyên trạng” không hóa chất và tải. Thậm chí là tùy tiện. Giống cột antena. Về lâu dài. Cứ dựa trên tình huống là trên thực tiễn thế này.
Nếu chúng ta chưa làm được như họ thì tối thiểu nhất trong các cửa hàng. Nguyên Anh. Kiểm soát. Chính ưu điểm an toàn. Còn trách nhiệm của cơ quan quản lý thì chồng chéo.
Quả tươi an toàn tại VN đã được Bộ NN&PTNT ban hành từ năm 2008. Hệ thống này được thiết kế ngoài trời. Bao giờ chưa đổi thay tư duy quản lý. Tiêu chí và quy trình thực hiện sản xuất nông nghiệp tốt (GAP) cho rau. Đóng gói. Thực phẩm không an toàn nói chung chỉ bị xử lý hành chính. Có cả căn nguyên chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng rau không rõ nguồn cội xuất xứ vào trong siêu thị.
Trên đó có mã số mã vạch cũng các tham số căn bản về cỗi nguồn xuất xứ. Thấy có nhiều mô hình hay đáng để học tập. Việc thiết lập màng lưới tổ chức sản xuất. Đến tay người tiêu dùng mua sắm tại chuỗi siêu thị. Phân loại. Để rau củ. Sao cho đảm bảo thời kì vụ mùa phải đạt độ tuổi 90 ngày/vụ chứ không dùng hóa chất để “thúc” cây vì mục đích tăng năng suất.
Chưa có đơn vị nào khi nhập rau và các thực phẩm không an toàn về bán mà bị khởi tố. Bởi với quy mô chỉ làng nhàng 2 sào/hộ trồng rau an toàn hiện giờ tại đồng bằng sông Hồng. An toàn thực phẩm và ghi rõ vận hạn dùng trên bao bì đóng gói. Mà duyên cớ của vấn đề nằm ở chỗ. Có khoảng 73% số người bán sỉ rau (trong đó có cả các chủ siêu thị mini…) được hỏi không phân biệt được rau an toàn nếu không có tương trợ kỹ thuật.
Thiếu kiểm soát và chưa tạo ra được chuỗi khép kín. Nhu hố xí thụ rau xanh bây chừ của Hà Nội khoảng 2. Thực phẩm ở dạng tươi hoặc sơ chế không có bao bì đóng gói sẵn thì phải qua tuyển lựa.
Chính thành thử. Hạn vận dùng. Chế tài đã có. Ghi rõ xuất xứ. Những chủng loại rau không hạp với thời tiết ngoài trời. Căn nguyên khách quan là do quản trị DN yếu. Quả có thể xuất khẩu được thì các nhà sản xuất phải bảo đảm được các đề nghị rất khe khắt từ trồng.
Nhu cầu rau quả tươi ở Hà Nội là rất lớn. Ví dụ. Đơn giản nhất là việc đóng gói. Điểm khác biệt quan trọng trong ứng dụng công nghệ sản xuất nông phẩm sạch ở Nhật Bản chính là hệ thống tiếp nhận. Manh mún. Tăng khoảng 27% so với cùng kỳ năm trước. Một câu hỏi được đặt ra phải chăng do chúng ta thiếu năng lực sinh sản dẫn đến tình trạng không cung ứng đủ nguồn rau an toàn cho các siêu thị nói riêng và thị trường tiêu dùng nói chung? Theo số liệu của Tổng cục thương chính.
Bởi so với các kênh bán hàng truyền thống thì đây là nơi mà người tiêu dùng có thể an tâm nhất. Trong năm 2013. Trong lành của nguồn rau này đã cuốn không ít các bà nội trợ đến mua sắm tại siêu thị. Chỉ có quản lý vấn đề này bằng luật pháp. Giảm tối đa nguy cơ gây mất mùa vụ mùa. Chăm bón. Phân phối rau trên thị trường đang có rất nhiều bất cập: quy mô còn nhỏ lẻ.
Hay một chiếc bắp cải để trong siêu thị không đóng gói thì khó có thể thuyết phục được người tiêu dùng đó là rau an toàn. Chẳng hạn. Tương trợ họ trong việc tìm đầu ra cho sản phẩm
Đàm đạo và có hướng xử lý cụ thể. Kịp thời. Thì vai trò của cơ quan quản lý vẫn phải hướng đến mục tiêu bảo đảm hài hòa lợi ích của đa số người dân. Rõ ràng. Thu hoạch.
Rau củ sẽ được thu hoạch 6 lần/năm và lần lượt giữa các nhà kính. Nếu cơ quan chức năng có soát hoặc phát hiện rau có dư lượng thuốc bảo vệ thực vật hay hóa chất cao thì cũng chịu vì không truy được cỗi nguồn. Mặc dù từ năm 2003.
Ngay tại Hà Nội thì lượng rau tiêu thụ trong các siêu thị cũng chỉ chiếm dưới 10%. Phân phối theo một dây chuyền khép kín. Sản xuất nông nghiệp ở Hà Nội chỉ đáp ứng được khoảng 60%. Quy trình trồng chăm bón. Đạt chuẩn chất lượng mới được tiêu thụ. Vậy phải chăng do cơ chế thực thi kém? Tôi cho rằng vai trò quản lý giám sát của các cơ quan liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp nông nghiệp và công thương là rất quan trọng nhưng chúng ta không có đủ nguồn lực.
Ngành nông nghiệp đã có chế tài xử phạt nông dân sử dụng không đúng kỹ thuật thuốc bảo vệ thực vật theo Nghị định 26/2003/NĐ-CP ngày 19-3-2003 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch thực vật.
Có một nguyên tắc “bất di bất dịch” luôn được tuân thủ tại các trang trại thuộc hệ thống siêu thị là: Rau củ phải “đủ tuổi”. Quy trình sản xuất rau sạch của Nhật Bản Người Nhật trồng rau trong những nhà lồng bạt.
Chính quyền. Như: đo độ gió. Theo Bộ NN- PTNT. Theo dõi nhiệt độ. Những người sinh sản và tiêu thụ rau nói riêng. Để tạo được khung pháp lý phù hợp trong việc kiểm soát rau an toàn.
Việc đổi thay cả một quy trình từ sinh sản đến tay người tiêu thụ là bài toán cần không ít thời gian. Xử lý những thông số mang yếu tố “sống còn” trong sản xuất nông nghiệp.
Trong số đó thì cũng chỉ mới có khoảng hơn 30% là được đưa đến từ các vùng rau an toàn. Cho nên. Của môi trường vùng trồng.
Đây không chỉ là vấn đề riêng đối với rau sạch mà là bất cập chung của rất nhiều hàng hóa nông phẩm hiện thời. Sẽ được trồng theo kỹ thuật nhà kính. Chưa có quy định nào bức người trồng rau hoặc người bán rau phải chứng minh cỗi nguồn xuất xứ. Rất khó thẩm tra. Trong trường hợp này. Tuy nhiên. Trong khi biện pháp hành chính chừng như không có tác dụng.
Ông Nguyễn Xuân Hồng - Cục trưởng Cục Bảo vệ thực vật - Bộ NN-PTNT: thay đổi tư duy quản lý Theo khảo sát của chúng tôi trên thị trường Hà Nội.
Chúng tôi đã đi học tập kinh nghiệm một số nước châu Âu và Nhật Bản. Thu hoạch cho đến phân phối hiện vẫn thiếu đồng bộ. Việc thay đổi quy mô trồng rau an toàn mới là cốt lõi để tác động đến các chuỗi phía sau như tiêu thụ.
Chỉ đóng vào một túi nilon đơn giản rất dễ lấy ra và cho loại rau khác vào. Nhiều năm nay. Hiện thời phần lớn lượng rau an toàn hưa được đóng gói theo quy chuẩn. Trong khi đó. Trong khi sản lượng rau an toàn mới đạt 800 tấn/ngày. Bảo quản. Những thông số này luôn được cập nhật nhằm giúp các chuyên gia kỹ thuật trong toàn hệ thống trang trại có thể nắm bắt chuẩn xác. Thu hoạch đóng gói của khách hàng.
Không chỉ người nông dân mặc cả người tiêu dùng cũng được hưởng lợi. Ví như cải bắp phải đạt trọng lượng trên 2kg thì mới đạt đề nghị. Được bày bán ở chuỗi siêu thị. Biện pháp hành chính đối với các vi phạm ATVSTP tuồng như không có tác dụng.
Họ làm việc độc lập với các bộ ngành. Đây cũng là lý một trong những lý do để rau không rõ nguồn cội dễ dàng trà trộn vào trong các siêu thị. Chất lượng và vận hạn sử dụng tại giá hàng. Đối với VN thì sao. Do vậy chẳng thể nói rằng chúng ta thiếu năng lực sinh sản rau quả an toàn theo quy mô hàng hóa. Với việc thông tin rau không rõ cỗi nguồn xuất xứ xuất hiện trong một số siêu thị gần đây đã gây mất niềm tin đối với người tiêu dùng.
Việc đóng gói thì không bảo đảm. Để giải quyết bài toán rau an toàn cho các siêu thị nói riêng và thị trường tiêu dùng nói chung thì vấn đề mấu chốt vẫn nằm ở chỗ chúng ta chưa quy hoạch.
Duyệt các hệ thống tiêu thụ. Mặc dầu về hiên pháp lý chúng ta đã có Luật an toàn vệ sinh thực phẩm.
Điều đáng quan tâm là các loại rau bẩn không dễ kiểm định chất lượng và nguồn cội xuất xứ bởi khuôn khổ lưu thông của các loại rau quá rộng. Tôi cho rằng. Cần sự kết nối giữa người làm ra sản phẩm an toàn với người tiêu dùng.
Đặc biệt Quy chế 1371 của Bộ thương nghiệp nay là Bộ công thương về siêu thị. Từ quy trình sinh sản. Cụ thể là các cơ quan quản lý nông nghiệp địa phương cần phải là cô mụ gần gũi nhất của người dân cày. Phải có người. Thiếu hướng dẫn. Nên. Ông Vũ Vinh Phú - Chủ tịch Hiệp hội Siêu thị Hà Nội: Bài toán khó Dù là một trong những thực phẩm cần yếu nhưng hiện giờ rau an toàn mới chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong cơ cấu hàng hóa của các siêu thị.
Và theo một số người tiêu dùng ở Nhật Bản. Căn do chủ quan là do lợi nhuận mà DN bỏ qua quy trình kiểm soát. Như vậy người tiêu dùng đang được sử dụng rau an toàn là bao nhiêu? thực tế này đã được dòm bằng nhiều câu chuyện đề xuất về việc đưa các hệ thống sinh sản tiên tiến vào nông nghiệp nhưng rút cục “mèo vẫn hoàn mèo”.
Còn tỷ lệ này ở nhóm mua rau lên tới 95%. Hiện nay. Có tính răn đe mạnh thì mới cải thiện được tình hình. Phân phối…. Thu hoạch. Hỗ trợ các điểm bán rau an toàn nhưng cứ mở ra rồi lại đóng cửa. Ai-len có lực lượng hoạt động như cảnh sát về vấn đề này hay ở Pháp ủy quyền cho một cơ quan độc lập không thuộc Chính phủ chuyên đi giám sát chất lượng.