Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Mỹ tác chia sẻ ngay chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?.

Đến năm 1969, tần suất cất cánh từ một tàu là 178 và từ hai hàng không mẫu hạm là 311, nhưng đến năm 1972 tần suất giảm xuống còn 132 lần xuất kích trên một tàu và 233 trên hai hàng không mẫu hạm

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Khu vực cơ động tác chiến của ACTF-77 tính từ tháng 2.

Để thực hành nhiệm vụ tiến công tiêu diệt các đích quân sự và các đích kinh tế, quân sự, bộ chỉ huy quân đội Mỹ ở Việt Nam sử dụng lực lượng của cụm không quân hải quân tác chiến chủ lực của hạm đội 7 rất liền. 1965 đến 31.

Có những nhà phân tách chiến lược cho rằng học thuyết là một sáng tạo chiến lược “có sức mạnh răn đe – ngăn chặn”, một số khác cho rằng thuyết lí tác chiến không-biển (Air – Sea Battle Operational Concept) là một bước phát triển mạnh mẽ của lịch sử tư duy chiến lược, chiến dịch.

(Còn tiếp)     Trịnh Thái Bằng    Nguồn: Tư liệu nghiên cứu lịch sử Bộ quốc phòng Liên Xô. Máy bay tiêm kích ném bom F-4 Phantom. Tuy nhiên, Mỹ đã vấp phải một lực lượng vũ trang nằm ngoài khả năng tính của những bộ óc điện tử Lầu Năm Góc. Trong giai đoạn chiến tranh, quân đội Mỹ thời khắc cao điểm nhất đã dùng đến 98 chiến hạm các chủng loại, trong đó trực tính có 4 tàu sân bay, 2-4 tàu tuần dương, từ 32 – 64 khu trục hạm và hộ vệ hạm, 1-2 hàng không mẫu hạm trực thăng, 12 – 40 tàu đổ bộ đường biển với số lượng máy bay tham chiến từ 443 đến 908 máy bay các loại.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, ưu thế công nghệ và hỏa lực chóng vánh mất đi khi thời gian chiến tranh kéo dài.

Mặc dù hầu như chơi có một sự kháng cự nào trên biển, bộ tư lệnh quân đội Mỹ vẫn tiến hành quơ cơ cấu biên chế tổ chức phòng ngự trên biển. Mặc dù không có một sức mạnh đối kháng nào trên biển gây khó khăn cho tác chiến trên biển nhưng với thế trận phòng không dày đặc, đa tầm của Miền Bắc Việt Nam, ý chí kiên cường của quân và dân Miền Bắc đã vô hiệu hóa mọi đòn đánh úp tấn công của đối phương

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Lực lượng vũ trang Việt Nam đã phát triển rất nhanh, từng bước khống chế bầu trời và bẻ gãy các cuộc tập kích đường không của không quân và không quân hải quân Mỹ. Để có được các thông báo mục tiêu, Mỹ dùng các loại tàu bay thám thính, trong đó cốt dùng máy bay thám thính chiến lược U-2 song song kết hợp với các tàu do thám điện tử và TCĐT.

1965, phi cơ này được dùng như một đài chỉ huy trên không. Trong thực tế chiến tranh ở Việt Nam, Mỹ đã dùng triệt để các kinh nghiệm của các cuộc chiến tranh trước, đồng thời cũng biến mặt trận Việt Nam thành bãi thể nghiệm các loại vũ khí mới, các phương thức tác chiến mới và các dụng cụ chiến tranh mới. Các tàu sân bay hoạt động đấu tranh trong hạm đội 7 là 175 — 250 ngày, trong đó có từ 5 — 6 lần tiến vào khu vực chiến sự, thời gian hoạt động cao nhất là 50 ngày.

Cất cánh trên tàu sân bay. Các hoạt động bảo dưỡng và tôn tạo luôn chiếm khoảng từ 170 ngày đến 210 ngày. Trong khu vực luôn có ít ra hai cụm không quân hải quân chủ lực tiến công, mỗi cụm được phân cấp 1 khu vực hoạt động thứ cấp.

Lực lượng không quân Mỹ thường tiến hành các đợt tấn công theo các chiến dịch không kích. Các chiến dịch không kích được quy định ngày, giờ tập kích cũng như thời gian đánh úp đường không, số lượng mục tiêu đánh phá, tọa độ và thuộc tính của mục tiêu, lực lượng phòng không của đối phương; số lượng và chủng loại phi cơ tham dự tranh đấu, số lượng và loại khí giới mang theo; tuyến đường tiến quân tiếp cận mục tiêu và quỹ đạo đường bay không kích, tuyến hành quân về cứ; phương pháp không kích, đội hình đương đầu của các tàu bay không kích; tổ chức và phương pháp gây nhiễu tiêu cực và nhiễu hăng hái bảo vệ đội hình không kích; đội hình lực lượng phi cơ tiêm kích ném bom che đậy và yểm hộ hỏa lực, phương pháp điều hành tác chiến và liên kết kết hợp; lực lượng, đội hình và phương pháp cứu hộ phi cơ đương đầu bị hỏng cũng như phương pháp cứu hộ phi công.

Hệ thống phòng vệ chống ngầm được giao cho một đơn vị chừng tiến công chống ngầm bao gồm các máy bay do thám, chống ngầm trên tàu sân bay, các phi cơ tuần biển chống ngầm lớp "Orion" và "Neptune", tuần tiễu trong khu vực thả neo và tầm xa chống ngầm

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Trong biên chế của ACTF-77 có từ 1 – 5 hàng không mẫu hạm, trong đó có từ 2 – 3 hàng không mẫu hạm tấn công chủ lực, 5 tàu tuần dương pháo hạm, 15 tàu khu trục và tàu hộ vệ pháo hạm, 6 tàu tuần biển. Trong trường hợp cường độ tác chiến tăng cao, sẽ có 4 hàng không mẫu hạm cùng dự tác chiến với 312 – 324 phi cơ chống chọi (166 – 184 phi cơ cường kích, 96 tàu bay tiêm kích), sự đổi thay biên chế của ACTF-77 phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó có hoạt động phòng không của đối phương và những tổn thất mà hạm đội 7 phải chịu.

Nhiệm vụ hàng đầu và cũng quan trọng nhất là các điểm nút liên lạc, cần tiến công liên tục suốt chiều dài cuộc chiến tranh. Lược đồ cơ động tiếp cận Vịnh Bắc bộ của ACTF-77. 2. Tàu sân bay nguyên tử "Enterprise" từ năm 1965 đến năm 1972 đã 6 lần hành tiến sâu vào Vịnh Bắc bộ, tiến hành 39. 1965 đến tháng 1. Do trên tàu số lượng phi công được biến chế là 1,3 — 1,5 kíp lái cho một máy bay đã không làm quá tải sức chịu đựng của phi đoàn khi các hoạt động tác chiến được tăng cường tối đa.

Những tổn thất nặng nề của ACTF-77 trong chiến tranh khẳng định rõ một điều căn bản, kết quả của chiến trận không phụ thuộc vào ưu thế vượt trội của khoa học công nghệ, phương tiện chiến tranh mà được quyết định bởi ý chí quyết thắng của dân tộc, của những con người đương đầu bảo vệ sơn hà trước những hành động xâm lăng của kẻ thù.

Dù không được hình thành một thuyết giáo gây nhiều danh tiếng như (Air – Sea Battle Operational Concept). Trong thời kì chiến tranh ACTF-77 bị tiêu diệt khoảng 640 phi cơ chiến đấu các chủng loại

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Khẩn hoang sử dụng phi cơ đương đầu cũng có cường độ rất cao, mỗi ngày một phi cơ cường kích tham dự từ 1,2—1,3 lần cất cánh, phi cơ tiêm kích là 0,5—0,9 lần cất cánh; phi cơ trinh sát viên TCĐT là 1,43 — 1,7 lần cất cánh; phi cơ tác chiến điện tử và quan sát trên không AWACS 1,25 — 1,5; tàu bay do thám quang ảnh là 0,58 — 0,83 lần xuất kích.

Những thành phần cốt lõi của triết lí tác chiến không-biển là sử dụng triệt để sức mạnh các lực lượng hải quân (các cụm hàng không mẫu hạm và chiến hạm tác chiến chủ lực), không quân hải quân, lực lượng Không quân và các lực lượng khác (bộ binh, lực lượng đặc nhiệm, lực lượng các nước đồng minh, tác chiến điện tử) với mục đích tấn công, diệt, bủa vây và phong tỏa lục địa trên một không gian trận mạc rộng lớn nhằm bóp nghẹt và phá hủy, diệt hoặc vô hiệu hóa sức mạnh quân sự, khí giới trang thiết bị chiến tranh của đối phương trên tất thảy chiều sâu mặt trận trong cuộc chiến tranh phi tiếp xúc, hỏa lực quy mô lớn, độ xác thực cao).

1968, hải quân Mỹ mất 360 phi cơ không quân hải quân và đến 1. 000 phi cơ bị hư hỏng hoặc trúng đạn. Thuyết lí có nội dung trả lời và định hướng các vấn đề tác chiến liên hợp, giải pháp liên kết sức mạnh của các lực lượng không quân và hải quân Mỹ cũng như các nước đồng minh trong một hệ thống đồng bộ thống nhất trên tất cả các không gian chiến trận – trên không, trên biển, trên đất liền, trong vũ trụ và không gian ảo.

Chỉ huy cấp cao nhất trên mặt trận Việt Nam là bộ chỉ huy chiến trường điều hành tất cả lực lượng quân đội Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương. Tần suất không kích của không quân hải quân Mỹ vào năm 1966 là: Từ một hàng không mẫu hạm bình quân các phi cơ tranh đấu xuất kích 111 lần/ngày đêm, từ hai tàu sân bay, con số là 178.

1964, Hội đồng tham vấn trưởng Liên quân Mỹ cứ vào những thông tin tình báo do thám của quân đội Mỹ, đã lên kế hoạch tấn công 94 mục tiêu trên lãnh thổ Miền Bắc Việt Nam, đây là những đích cần tiến công phá hủy trước nhất, bao gồm các đường bộ giao thông tải, các khu công nghiệp và các nhà máy năng lượng, các nhà máy hoặc tổng kho xăng dầu, các trận địa phòng không.

Thời gian cơ động đương đầu ngoài vùng chiến sự là 108 đến 136 ngày, chuyển trạng thái sẵn sàng đương đầu khoảng 45 ngày, neo đậu tại cứ - đến 60 ngày. Chỉ huy trưởng ACTF-77, Chuẩn Đô đốc D. Nhưng trên thực tiễn, triết lí (Air–Sea Battle Operational Concept) chỉ là một bản sao chép lại cuộc chiến tranh ở Việt Nam của lực lượng không quân hải quân Mỹ trên Biển Đông

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Từ ngày 7. Vùng cơ động đấu tranh của các cụm hàng không mẫu hạm trên Vịnh Bắc Bộ. Richardson cho biết: “ Mục đích của chúng tôi là không cho đối phương khả năng dùng các tuyến đường liên lạc chính, buộc họ phải chuyển các dụng cụ giao thông sang những con đường nhánh, đường phụ, bỏ qua những tuyến đường đã bị đánh hư nặng, bằng cách đó giảm thiểu nguồn cung cấp quân lực, khí giới trang bị cho Miền Nam Việt Nam.

Tàu sân bay nguyên tử "Enterprise". Lực lượng không quân hải quân ACTF-77 khi có hai hàng không mẫu hạm hoạt động trên vùng chiến sự liền tác chiến trên không có từ 152 đến 166 máy bay (trong đó có 86 – 96 máy bay cường kích ném bom, 48 tàu bay tiêm kích) nếu biên chế lên đến 3 tàu sân bay (đây cũng là con số thường xuyên có mặt trên Vịnh Bắc bộ) là 240 – 250 tàu bay chống chọi (trong đó có 130 – 150 tàu bay cường kích, 72 – 84 máy bay tiêm kích).

Con số thương vong cũng đáng sợ. Trong chiến tranh ở Việt Nam, lực lượng hải quân, không quân hải quân hạm đội 7 phải giải quyết hàng loạt nhiệm vụ trong phạm vi rộng lớn. Các tàu bay trinh sát viên điện tử AWACS tuần tiễu đêm ngày 24/24, các tàu bay tiêm kích che chắn và bảo vệ hoặc bay tuần tiễu trên bầu trời, hoặc đậu ở trên boong trong tư thế sẵn sàng cất cánh đánh chặn cao nhất.

1973 nằm trên vịnh Bắc bộ, khu vực này có diện tích khoảng 140 – 160 dặm, cạnh gần nhất với bờ biển Việt Nam là từ 40 – 80 dặm, khoảng cách xa nhất là 100 – 120 dặm. Mục đích cốt yếu của thuyết lí quân sự này là phát triển sức mạnh răn đe, ngăn chặn, đẩy lùi và từng bước cô lập đối phương nhằm đáp trả những nguy cơ đe dọa quyền tự do hoạt động trên các đại dương của Mỹ.

Chiến dịch không kích trước nhất được tiến hành vào ngày 2

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Vào tháng 1. 3. Từ những nhận định của các nhà chiến lược địa chính trị Mỹ về sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự và đặc biệt trong lĩnh vực không quân – hải quân trên khu vực phía Tây thăng bình Dương, thuyết giáo tác chiến không-hải của Mỹ đã ra đời.

000 tấn bom đạn và rải 400 quả thủy lôi. 3. Lực lượng quân sự thù địch bao gồm cả đối tượng tác chiến có tiềm lực quân sự hùng mạnh để phong tỏa tất cả khu vực tây Thái Bình Dương.

Lực lượng không quân hải quân Mỹ hoạt động trên chiều sâu trận mạc từ 200 – 650 km tính từ trọng tâm của khu vực cơ động tác chiến, phương diện tấn công khoảng từ 400 – 650 km. Tác chiến không-hải tại Việt Nam   Tháng 8. Nhưng cụm không quân hải quân tác chiến chủ lực 77 của Hạm đội 7 Mỹ đã thực hiện chính xác những nhiệm vụ đã nêu trong cuộc chiến tranh không biển ở Việt Nam.

000 đợt không kích vào Việt Nam, ném hơn 30. Trong tổng thể chung tính từ năm 1964 đến năm 1973, không quân của ACTF-77 đã tiến hành 500

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Trong tuốt luốt 16 tàu sân bay, tham gia vào chiến tranh Việt Nam có các hàng không mẫu hạm "Enterprise", "America", "Independes", "Kitty Hawk", "Constellation", "Ranger", "Saratoga", "Midway", "Corales", "Franklin D. Liên kết kết hợp giữa lực lượng không quân và không quân hải quân trong mỗi chiến dịch do bộ chỉ huy tiền tuyến của không quân Mỹ trong khu vực yên bình Dương đảm nhiệm.

Khi hoạt động trong vùng chiến sự, tàu sân bay tham dự các hoạt động tác chiến liên tục từ 6 đến 11 ngày, tiếp theo là 1 ngày nghỉ của lực lượng biên chế trên tàu và tiến hành soát, tu tạo bảo dưỡng các tàu bay tranh đấu. Các chuyến hải hành của các hàng không mẫu hạm từ lãnh hải phía Tây nước Mỹ đến Việt Nam trong vòng 14 ngày, từ bờ Đông chiếm gấp đôi thời kì.

1965, khả năng không kích đường giao thông và các đích tải của không quân hải quân Mỹ được nâng cao nhờ sử dụng loại phi cơ ném bom tốc độ cận âm A-6 "Intruder" và máy bay trinh sát viên điện tử tầm xa E-2 "Hawkeye" được đưa vào biên chế vào tháng 10. Máy bay A-6 "Intruder" cất cánh trên hàng không mẫu hạm. Tuyến phòng vệ tầm gần bao gồm các tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu hộ tống pháo hạm, tạo thành vòng cung phòng ngự quanh các hàng không mẫu hạm trên khoảng cách từ 20 – 30 cab (1 cab = 219.

Từ tháng 6. Nội dung của thuyết tác chiến không–hải được đưa ra như một “tư duy sáng tạo” trong muôn ngàn các học thuyết quân sự của Mỹ có đích: “Phá hủy, diệt và đánh bại mọi lực lượng quân sự thù địch của đối phương trên tất thảy chiều sâu chiến trường, cai trị bầu trời và mặt biển, phong tỏa lục địa của đối phương.

Nhiều tàu sân bay đã tiến vào vùng chiến sự bờ biển Việt Nam 5-7 lần. Trong các khu vực của cụm không quân hải quân công kích chủ lực có khu vực nạp nhiên liệu và cung cấp nhu yếu phẩm, khí giới đạn và cơ sở vật chất đi cùng, nhiệm vụ hậu cần kỹ thuật được giao cho một nhóm tàu có trang bị tàu bay trực thăng chuyên chở, thường được gọi là hậu cứ trên biển

Mỹ tác chiến không-hải ở Biển Đông như thế nào?

Tuốt những thành phần than gia triết lí cũng như mục đích đặt ra đã được nêu lên trong mục đích, đề nghị, nội dung và hành động của các chiến lược “chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ” của Mỹ tính từ năm 1960 đến năm 1973. Từ những dữ liệu phân tích kế hoạch tác chiến, phương thức tiến hành tác chiến, không gian trận mạc, cơ cấu tổ chức biên chế lực lượng và đội hình tác chiến của ACTF-77 Hạm đội 7 Mỹ cho thấy khi tiến hành chiến tranh đánh phá Miền Bắc Việt Nam và chiến tranh cục bộ ở Miền Nam Việt Nam, cụm không quân hải quân công kích chủ lực Mỹ ACTF-77 đã triển khai những hoạt động tác chiến rất chặt đẹp, khoa học, xem hầu hết các cảnh huống của chiến trận và công tác đảm bảo tác chiến rất chi tiết, tỷ mỉ, đáp ứng đúng đề nghị của tác chiến không-biển hiện đại (Air – Sea Battle Operational Concept) bây chừ.

Sự ra đời của học thuyết này đã làm tốn giấy mực của rất nhiều các nhà phân tích, bình luận trong và ngoài nước. Khu vực cơ động chiến đấu dọc bờ biển Việt Nam của ACTF-77.

Các tàu bay không quân hải quân đánh úp các đích trên đất liền và các khu vực công nghiệp, tiến hành đổ bộ lực lượng lính thủy đánh bộ đường biển và đường sông, tiến hành phong tỏa bờ biển, đảm bảo an toàn cho các lực lượng vận chuyển sông – biển. 000 cuộc đột kích đường không: 70% các chuyến bay không kích và 30% — các chuyến bay yểm trợ hỏa lực; 60% các chuyến bay không kích nhằm tấn công các mục tiêu trên lục địa thuộc miền Bắc Việt Nam.

Tính từ thời khắc đó đến 1969, không quân hải quân của ACTF-77 đã tiến hành hơn 60 chiến dịch không kích. 5 m). Roosevelt", "Bon Homme Richard" "Oriskany" "Ticonderoga" "Hancock" và "Forrestal". Khi có tới 3 tàu sân bay đều hoạt động trong khu vực chiến sự, một trong 3 chiếc sẽ là lực lượng dự bị tăng cường, hai tàu sân bay thực hiện nhiệm vụ tiến công chủ lực, các tàu bay đấu tranh tiến hành các đợt không kích 12h trong ngày.

Hàng không mẫu hạm Kity Hawk. Cũng cần để ý rằng, mục đích cốt của tác chiến không-hải là đánh quỵ tiềm lực chiến tranh, ý chí tranh đấu của đối phương trong một cuộc chiến tranh phi tiếp xúc với hỏa lực quy mô lớn, chuẩn xác và mật độ hỏa lực rất cao.

Các chuyên viên phân tích chiến lược Mỹ thuộc Trung tâm phân tích đánh giá chiến lược và ngân sách quốc phòng (Center for Strategic and Budgetary Assessments) Mỹ đã nhận định trong tương lai gần, sự phát triển của PLA sẽ ngăn chặn khả năng tiếp cận và hoạt động tự do hàng hải của Mỹ trên khu vực Biển Đông, Hoa Đông và Tây thanh bình Dương sẽ đe dọa nghiêm trọng những lợi ích của nước Mỹ song song đề xuất thuyết giáo tác chiến không–hải (Air – Sea Battle Operational Concept) nhằm ứng phó với nguy cơ từ Trung Quốc.

1965. Như ở trong chiến tranh Triều Tiên, cụm không quân hải quân tác chiến số 77 (ACTF -77) luân phiên có 15 tàu sân bay tác chiến chủ lực và 2 hàng không mẫu hạm chống ngầm, Trong suốt cuộc chiến đã tiến hành 66 chiến dịch tập kích bở biển Việt Nam trên quy mô lớn. 2012, Lầu Năm Góc đã thành lập Văn phòng phân tách và định hướng đưa vào thực tại triết lí tác chiến không-hải (Air – Sea Battle Operational Concept).