Thứ Tư, 31 tháng 7, 2013

Bé 6 tuổi sống một mình trên núi vì mang chung virus HIV

“Ngôi nhà” đơn độc trên núi

Ngôi làng nhỏ Ngưu Xa nằm sát ngọn núi Mã Lộc ở thành phố Liễu Châu, Trung Quốc. Con đường xi măng bắt đầu từ chân núi, chạy dần lên trên, 2 bên nhà cửa san sát. Càng lên cao, đường càng hẹp và trở thành gập ghềnh hơn, các ngôi nhà cũng lác đác dần.

Đến lưng núi đã gần như không còn thấy bóng người. Tuốt những gì còn lại là 1 con đường đất bẩn thỉu, xung quanh mọc đầy cỏ dại, bốn bề vắng lặng và hoang sơ. Nhưng nếu cứ tiếp đi, bền chí men theo con đường đất đó lên cao nữa, người ta sẽ tìm được 1 ngôi nhà nhỏ nằm trật, trơ trẽn giữa rừng núi.

Gọi là nhà, kì thực đó chỉ là 3 khối xi măng rỗng, lợp mái tôn, khoét 1 khoảng trống để chui ra chui vào và thậm chí còn không có cửa sổ. Trông lụp xụp thế thôi nhưng đó hoàn toàn không phải nhà hoang hay căn chòi cho những người đi săn nghỉ chân. Đây là nơi sinh sống của cậu bé A Long, 6 tuổi.

Gian nhà chính tương đối đầy đủ với với vài viên gạch dựng thành cái bếp. Chiếc bô sứ đặt trong góc phòng gọi là… “nhà vệ sinh”. Đó là “phòng ngủ” của A Long. Còn 2 gian khác xây kế bên thì luôn đóng cửa im ỉm.

A Long chơi đùa cùng người bạn độc nhất, chú chó Lão Hắc của mình.

Mặc dầu cánh cửa gỗ đã xiêu vẹo và cũng chẳng có khóa nhưng đã từ lâu lắm rồi, không còn ai lảng vảng đến gần nữa. Hồi nhỏ, A Long từng sống trong những gian phòng này, nhưng kể từ khi cha em tắt nghỉ ở đây, em không 1 lần bước chân vào nữa. Có nhẽ trong thâm tâm, cậu bé cảm thấy như vong hồn cha vẫn đang say ngủ.

Thường ngày, A Long dành phần đông thời kì lẩn quẩn trong khoảng sân nhỏ phía trước ngôi nhà cùng chú chó mà cậu gọi tên là Lão Hắc. Ngày nào cũng vậy, A Long ôm Lão Hắc ngồi hàng giờ liền, hướng ánh mắt buồn bã và rỗng không nhìn bóng gió ra con đường vắng dẫn tới thế giới rộng lớn ngoài kia.

Từ sau khi cha mất, cậu bé chưa 1 lần xuống núi. Khi nhìn thấy bóng vía thân thuộc của 1 người đàn ông cùng 1 đàn bà mà A Long vẫn gọi là “chú” và “dì” từ xa tiến tới, em tỏ ra rất mừng.

Kì thực, cả 2 đều không có họ hàng gì với cậu bé. Họ chỉ là những cán bộ ủy ban xã bi cảm cho hoàn cảnh của em nên thỉnh thoảng lại ghé thăm. “Chú” và “dì” mang cho A Long hộp bánh qui và nải chuối, rất tự nhiên đặt chúng xuống bàn. Họ dặn em đừng có mà ăn bánh thay cơm. Cậu bé gật đầu, toét miệng cười sung sướng.

Hàng tháng, A Long nhận được 70 quần chúng Tệ (khoảng 230.000 đồng) tiền trợ cấp đói nghèo và sẽ tăng lên thành 100 quần chúng. # Tệ vào năm tới. Người của ủy ban vẫn lĩnh giúp rồi đích thân mang đến tận nhà cho em.

Số tiền này cũng đủ cho cuộc sống thanh đạm của A Long. Thêm vào đó, nhiều nhà hảo tâm biết đến cảnh ngộ của em cũng gửi chút tiền trợ giúp. Thành thử, cậu bé sẽ không phải lo đến chuyện mua thức ăn hay xống áo, cũng chẳng sợ đói rét.

Thế nhưng, về mặt giáo dục hay chăm nom y tế thì chính quyền địa phương hầu như chẳng thể giúp gì nhiều, bởi kỳ thực A Long không hoàn toàn là trẻ mồ côi. Dù ba má đều đã mất, em vẫn còn vài người họ hàng khác.

Mạng xấu số của A Long

Cha của A Long vốn sinh ra ở làng này. Ngày còn trẻ, ông đi tha phương cầu thực ở tận đâu đâu, có đến mười mấy năm trời người làng không thấy mặt. Đến lúc trở về lại mang theo 1 người vợ chẳng rõ tông tích. Cha mẹ A Long cũng muốn tảo tần làm ăn, sống thế cục bình dị như bao gia đình khác ở đây.

Thế nhưng, miệng lưỡi cõi tục vốn ác độc. Lại nghe đâu thời kì xa quê, ông đã từng vào tù ra tội đôi lần. Nên chi, dẫu có thay thế nào họ cũng không sao thoát được những định kiến của người đời.

6 năm trước, 2 vợ chồng đã chọn nơi hoang vắng này, cất 1 ngôi nhà hoàn toàn tách biệt để tránh những ánh nhìn dè dặt cùng thái độ hững hờ từ xóm giềng xung quanh. Họ sống ở đây cho đến tận khi chết, bỏ lại mình cậu bé A Long.

Hàng ngày cậu bé vẫn 1 mình lên núi kiếm củi, 1 mình nấu cơm, tắm giặt, nuôi gà, đến tối lại chong đèn tự học chữ

Bây chừ, người nhà độc nhất còn gần gũi với em là bà nội đã 84 tuổi. Cứ vài ngày, bà lại tới thăm đứa cháu nhỏ 1 lần. Những hôm như thế, bà cụ sẽ thay A Long cho gà ăn và nấu bữa tối, còn em thì được rảnh rỗi chơi thêm chút nữa.

Bà nội trồng cho A Long 2 luống rau nhỏ trong vườn, một bên là cải bắp, một bên là hành tây. Vườn rau nhỏ này cũng đủ cho mình cậu bé ăn rồi. Bà cụ hiện đang sống cùng gia đình 1 người con trai khác, tức là chú ruột của A Long.

Từ nhà phải đi bộ một đoạn khá xa, đường xá lại khấp khểnh nên không phải ngày nào bà cũng đến săn sóc cho em được. Chính quyền xã từng đề nghị bà cụ dọn lên đây ở cùng A Long cho tới khi em lớn khôn. Nhưng bà dìm bản thân mình cũng thấy sợ hãi nếu phải sống ở nơi hoang vu, trống trải thế này.

Có người hỏi sao bà không mang cháu trai xuống núi, tới nương nhà người chú luôn? Cụ chỉ cúi đầu không đáp, nước mắt rơm rớm trên bộ mặt già nua, âu sầu.

A Long không biết nhiều về những người bà con mà em có. Các “chú”, các “dì” ở ủy ban xã gần như gia đình của cậu bé, bởi họ tâm thành quan hoài và luôn lo lắng cho em. Mỗi lần đến thăm, họ đều mang cho A Long thức ăn ngon, áo xống mới và cậu nhóc vui lắm.

Cách đây không lâu, trời tự dưng rét đậm kéo dài, 1 “dì” ở ủy ban đêm nào cũng lặn lội leo lên tận đây để tiếp tế chăn màn với áo xống ấm cho em. Ngoài ra, đôi khi cũng có những người lạ mặt tốt bụng tìm tới nhà, tận tâm hỏi han và chơi với cậu bé 1 lúc. Số tiền họ cho A Long chẳng biết tiêu gì bởi em chưa hề có ý định xuống núi.

Nỗi bất hạnh của A Long không chỉ ở chỗ thiếu vắng sự yêu thương, trông nom của cả cha lẫn mẹ. Em còn mang trong mình virus HIV. Năm ngoái, trước khi khuất, mẹ của A Long bị ốm rất nặng. Thân thể héo quắt, gầy mòn và yếu ớt đến mức người làng đều nghĩ cô mắc bệnh lao.

Sau đó không lâu, đến lượt cha của A Long có các triệu chứng hao hao. Chỉ trong 1 thời gian ngắn, người đàn ông vạm vỡ đó chẳng còn gì ngoài bộ da bọc xương. Dân làng bắt đầu thì thầm với nhau rằng, cả hai vợ chồng đều mắc bệnh AIDS.

Và tin đồn đã được xác thực khi cha của A Long phải nhập viện. Một đứa trẻ mới 6 tuổi đầu làm sao hiểu được bệnh AIDS nghĩa là gì. A Long chỉ biết rằng cha bị ốm giống mẹ và rồi cũng sẽ chết như vậy.

Trước khi mất, cha của A Long yếu ớt tới mức chẳng thể rời khỏi giường chứ đừng nói đến việc chăm nom cho đứa con trai nhỏ. Lúc ấy, em vẫn chưa biết tự thổi nấu, chỉ có thể sống dựa vào sự viện trợ từ cô Lượng, 1 người bạn cũ của ba má A Long sống cách đó không xa.

Vào 1 buổi trưa tháng 7, đã quá giờ cơm mà vẫn chưa thấy cậu bé đến lấy đồ ăn như mọi ngày, người đàn bà đôn hậu cảm thấy lo âu và đích thân tới nhà A Long xem sao. Cô phát hiện ra rằng, cha của cậu bé đã lặng lẽ mất.

Suốt thời gian ông lâm chung trong đớn đau, chỉ có mình A Long ở bên và chứng kiến quơ. Đến lúc nghe tiếng người, em mới bước ra khỏi phòng và tĩnh tâm nói: “Bác ơi, cha con đi rồi, giống như mẹ con ấy …”.

Cậu bé không hề khóc nhưng sự lặng im thê lương và ánh mắt cô độc đến nhói lòng của A Long khiến cho vớ những người xung quanh phải rơi lệ.

Vì 1 số thủ tục hành chính rối rắm mà tới 2 ngày sau, hài cốt của cha A Long mới được đưa đến nhà tang lễ. Suốt thời kì ấy, cậu đấu lặng lẽ ngồi bên, canh phòng thây ông cả đêm. Cũng kể từ đó trở đi, A Long không bao giờ nói về “ba” nữa.

Sau đó ít lâu, cũng có vài nhà hảo tâm tìm đến xin được nhận nuôi cậu bé. Nhưng khi toàn bộ mọi thứ đã được chuẩn bị khúc thì xét nghiệm HIV của A Long cho kết quả dương tính, có nghĩa là em cũng mang trong mình mầm bệnh chết chóc. Vậy là những “nhà hảo tâm” kia cũng lần lượt “bốc hơi”.

A Long không biết HIV là gì, cậu chỉ biết những người bạn thuở trước vẫn cùng chơi đùa với mình, nay không dám lại gần em nửa bước. Đã đến tuổi đi học, nhưng A Long không được đến trường.

Khi bàn tay tí xíu của cậu bé bị bỏng vì nước sôi, ngay cả bác sĩ ở trạm y tế xã cũng không muốn chạm vào để chữa trị cho em. Thậm chí, bà nội của em, họ hàng ruột rà cũng không dám sống cùng em. Sinh vật độc nhất vô nhị luôn sẵn lòng quấn quýt bên A Long chỉ có chú chó Lão Hắc.

Có 1 thời gian ngắn, A Long từng được theo học lớp vỡ lòng tại ngôi trường tiểu học huyện. Tuy nhiên, chuyện đó không kéo dài lâu. Hiệu trưởng Trần cho biết tin cha mẹ A Long chết vì căn bệnh thế kỷ đã lan khắp làng và ai cũng biết bản thân cậu bé đang mang trong mình virus HIV.

Vì vậy để em được đến trường là 1 việc vô cùng gieo neo. Nhà trường phải đối mặt với quá nhiều áp lực. “Trường chúng tôi có khoảng 200 em học trò. Ngần ấy đứa trẻ sàn sàn tuổi nhau thật khó tránh khỏi va những lúc chơi đùa, thập chí là cãi vã và xô xát. Vậy các phụ huynh khác sẽ nghĩ sao?”, Hiệu trưởng Trần nói.

Tháng 9 năm nay, bà của A Long đã xin gặp ông để nài nỉ cho cậu bé được vào lớp 1. Nhưng khi cha mẹ của các học sinh khác biết được điều đó, họ nhất loạt ký tên vào bức thư phản đối. Rút cuộc, nhà trường cũng đành phải chịu thua.

“Về trường hợp của A Long, chúng tôi đã tức thời gửi mỏng lên bộ giáo dục. Ban giám hiệu và ủy ban dân chúng xã cũng đã tổ chức nhiều cuộc họp để bàn luận về vấn đề này nhưng vẫn chưa thể đưa ra quyết định rốt cục”, đó là câu giải đáp “chung chung” của đại diện nhà trường khi phóng viên hỏi đến.

Một phụ huynh đứng gần đó ngắt lời: “Nếu thằng bé được nhận vào học thật thì tôi đành phải chuyển con tôi sang trường khác. Tôi thấy hết sức lo âu”.

Cậu bé kiên cường

Sau cái chết của cha, chừng như chỉ qua 1 đêm A Long đã trưởng thành lên rất nhiều. Thảm kịch này cứ tiếp nối thảm kịch khác giáng xuống gia đình em nhưng cậu bé không hề rơi dù chỉ 1 giọt nước mắt. Mới 6 tuổi đầu, em đã học được cách tự nấu ăn, giặt gịa áo xống, cách sắp xếp công việc trong ngày.

Tối đến, em lại chong đèn, tự mình dở sách ra học chữ, không cần ai nhắc nhỏm hay giục giã. Dẫu trơ khấc trên cõi đời, em vẫn kiên cường sống tốt.

Mỗi khi có người lạ đến thăm, giống như bao đứa trẻ khác, lúc đầu A Long tỏ ra rất rụt rè và xấu hổ, nhưng chỉ lát sau, khi đã quen, em tức tốc khôn xiết tinh nghịch. Cậu nhóc thú khi được chụp ảnh và còn “hứng chí” trình diễn vài đường “võ thuật Trung Hoa”.

Thật khó có thể tin rằng, đứa bé ngây thơ và hoạt bát nhường ấy lại đã từng phải tận mắt chứng kiến cái chết thê thảm của cả cha lẫn mẹ và giờ đây đang phải vật lộn với cuộc sống 1 mình. Nhưng bản thân A Long lại chẳng hề thấy sống 1 mình có gì là bất hạnh cả. Nhất là khi em còn có Lão Hắc bên cạnh.

Chú chó mực này gia đình A Long nuôi từ mấy năm nay. Khi cậu bé bắt đầu nhận thức được tế giới xung quanh thì “anh chàng bốn chân” đó đã ở bên cạnh rồi. Con chó là người bạn thân thiết nhất, mà kì thực là độc nhất vô nhị của em.

Mỗi đêm kể cả khi đi ngủ A Long cũng không bao giờ đóng cửa. Vì thỉnh thoảng Lão Hắc sẽ chui vào nhà, nằm ngay dưới chân em. Hoặc nếu không chú ta cũng sẽ quì phục trước cửa, dựng đôi tai lớn nghe ngóng vào màn đêm để canh gác cho cậu chủ nhỏ của mình.

Lão Hắc không thích sủa khi gặp người lạ, và thậm chí đôi khi còn tỏ ra “bẽn lẽn” tới mức vội vã nấp vào trong nhà mỗi lần ai đó đến thăm. Thế nhưng, chỉ cần A Long gọi một tiếng “Lão Hắc” thì chú ta sẽ ngay lập tức xuất hiện, vui và trìu mến chạy quành chân cậu bé.

Em mau chóng quì xuống, nâng 2 chân trước của Lão Hắc lên rồi ghé sát vào đầu chú. Lão Hắc nhẹ nhàng liếm lên mặt A Long bằng chiếc lưỡi mềm mại và ấm áp khiến cho em bật cười khanh khách. Có 1 sợi dây gắn bó rất lạ lùng giữa cậu bé và chú chó. Hai người bạn chẳng thể trò chuyện nhưng cũng chưa bao giờ cần đến lời nói mới có thể hiểu được nhau.

Dù thế nào thì 1 cậu bé mới 6 tuổi vẫn cần có người chơi cùng. Nhưng những đứa bạn cũ của A Long không muốn đến gần cậu nữa. Hồi trước có 1 đứa bé họ Lương vẫn thường lén tới đây thăm em nhưng bấy lâu không thấy xuất hiện.

Có nhẽ cha mẹ thằng bé đã phát hiện ra và cấm nó bén mảng tới gần “ngôi nhà bệnh tật” này. Tâm hồn trẻ nít vốn thơ ngây và lương thiện nhưng những gì người lớn “bơm” vào đầu óc chúng sẽ trở thành thứ định kiến độc ác đeo đẳng suốt cuộc thế.

Có nhẽ vì mù mờ nhận thức được điều đó mà mỗi khi có ai hỏi, A Long đều trả lời rằng không muốn xuống núi vì thấy “không quen”.

Dẫu nói thế nhưng em vẫn dành hàng giờ liền buồn bã nhìn bóng gió ra con đường độc nhất vô nhị nối ngôi nhà đơn độc của mình với thế giới bên ngoài. Đến khi những tia sáng rút cục dần tắt, A Long mới bắt đầu đứng lên đi chuẩn bị bữa tối.

“Cháu biết tự nấu cơm cơ à?”, một “chú” đến thăm lần đầu hỏi A Long với vẻ kinh ngạc không hề giấu. Cậu nhóc gật đầu và thậm chí còn giơ bàn tay trái của mình ra. Giữa ngón trỏ và ngón cái là vết thương lớn đã đóng vảy trông thật tội nghiệp.

Thế nhưng, A Long tỏ ra khôn xiết bình thản “khoe” rằng đã tự làm mình đã bị bỏng trong lúc nấu bếp mấy hôm trước. Bây giờ thì nó sắp lành rồi. Lúc em bị đau không có ai bên cạnh yên ủi, vỗ về hay săn sóc và phải 1 ngày sau mới có người phát hiện ra. Nhưng ngay cả các y tá cũng “ngại” chạm vào đó nên chi họ chỉ rắc lên vết thương một chút thuốc kháng sinh.

A Long thường tự mình đi sâu vào núi kiếm củi đun bếp. Với cậu, chuyện đó giống 1 trò chơi, 1 chuyến thám hiểm hơn là công việc vất vả, vất vả. Vớ được cành cây khô nào, cậu lại hì hục kéo về nhà để đùng dần.

Việc giặt quần áo với A Long cũng chẳng khó khăn gì. Có điều vì thân hình nhỏ xíu, em vẫn phải bắc ghế lên mới với tới dây phơi. Nhà A Long không có phòng tắm, chỉ có cái bể lộ thiên xây bằng gạch để hứng nước mưa và em thường đứng ngay ngoài sân để tắm.

Mùa đông ở núi rừng phương Bắc vô cùng buốt giá vì vậy việc tắm rửa cũng thêm phần “gieo neo”. Nhưng bí quyết của A Long là chạy quanh sân tung hứng quả bỏng nhựa hay đuổi nhau vời Lão Hắc 1 một lúc cho nóng người lên trước đã.

Ngày lại ngày trôi qua, A Long vẫn lớn lên giữa lòng thương lẫn cả sự kì thị của cõi trần. Rồi ngày mai cậu bé sẽ đi về đâu vẫn là câu hỏi nhức nhối. Nhưng 1 đứa trẻ sớm trưởng thành và ngoan cường đến thế kiên cố sẽ sống thật tốt, dẫu cho có bất kỳ khó khăn nào đang rình rập phía trước.